CHĂM SÓC BỆNH NHÂN TAI BIẾN MẠCH NÃO
5.1. Nhận định chăm sóc:
Điều dưỡng cần khai thác người nhà bệnh nhân và các nguồn thông tin khác để có một lịch sử bệnh chi tiết vì biết được lịch sử bệnh chi tiết có thể biết được vùng não bị tổn thương và cả nguyên nhân của cả đột quị nữa.
Cần lần lượt thu thập các thông tin về:
- Mức độ tỉnh táo (ý thức) của bệnh nhân.
- Các dấu hiệu sinh tồn.
- Phát hiện các thiếu sót về nói, nghe, nhìn, đọc, viết.
- Khả năng tự chăm sóc và hoạt động thể lực?
- Ăn uống: Nuốt có khó; ngẹn; sặc hay không? Tình trạng dinh dưỡng?
- Tình trạng bài tiết: Bí đại, tiểu tiện ? Đại, tiểu tiện không tự chủ?
- Phát hiện các yếu tố nguy cơ…
- Trình độ học vấn? Hoàn cảnh kinh tế? Mối quan hệ gia đình? Điều kiện sống và làm việc…
5.2. Chẩn đoán chăm sóc:
Dựa trên các thông tin thu được qua phần nhận định có thể đưa ra một số chẩn đoán chăm sóc cho bệnh nhân TBMN là:
- Rối loạn tưới máu não do giảm dòng máu tới não hoặc do tăng áp lực nội sọ.
- Giảm hoạt động thể lực và giảm khả năng tự chăm sóc do liệt, do giảm nhận thức.
- Giảm thông tin bằng lời nói do tổn thương bán cầu đại não trái.
- Nuốt khó do yếu cơ, do giảm phản xạ nuốt.
- Rối loạn đại, tiểu tiện do mất phản xạ, rối loạn nhận thức.
- Nguy cơ bị loét ép do nằm bất động, do giảm cảm giác.
5.3. Lập kế hoạch chăm sóc:
Các mục tiêu chăm sóc cần đạt được là:
- Duy trì được dòng máu não thoả đáng.
- Người bệnh sẽ dần dần cải thiện được khả năng hoạt động thể lực và tự chăm sóc bản thân, ngăn ngừa được các biến chứng.
- Người bệnh sẽ thông tin được bằng cách thay đổi phương pháp thông tin và luyện tập phục hồi được tiếng nói.
- Đảm bảo đủ nhu cầu dinh dưỡng cho người bệnh.
- Người bệnh sẽ đại, tiểu tiện được bình thường.
- Người bệnh sẽ không bị tổn thương da hoặc sẽ phục hồi tổn thương da nhanh chóng nếu đã có.
5.4. Thực hiện chăm sóc:
* Duy trì dòng máu não thỏa đáng bằng các biện pháp:
(Đặc biệt là trong giai đoạn cấp)
- ít nhất cứ 4 giờ điều dưỡng phải nhận định về nhận thức của người bệnh theo thang điểm Glasgow (điểm tối ưu là 15, càng thấp thì sự tưới máu não càng kém).
- Trong trường hợp có phù não, tăng áp lực nội sọ thì để người bệnh nằm đầu cao 300 nhằm làm tăng dẫn lưu tĩnh mạch não, giảm bớt áp lực nội sọ tạo điều kiện tốt cho tưới máu não.
- Trong khi chăm sóc, tránh tất cả các hoạt động có thể gây tăng áp lực nội sọ
cho người bệnh như:
+ Tránh để người bệnh bị cong gập nhất là đoạn hông, cổ.
+ Hạn chế ho của người bệnh.
+ Giữ bệnh phòng tuyệt đối im lặng.
- Theo dõi sát các dấu hiệu sinh tồn ít nhất là 4 giờ/1 lần.
(Cho phép giữ huyết áp ở mức 150/100 mmHg để duy trì áp lực tưới máu não)
- Thực hiện một số thuốc nhằm cải thiện tưới máu não:
+ Thuốc chống đông: Heparin, Wafarin, Aspirin.
+ Thuốc giãn cơ trơn thành mạch não: Nimodipin ...
+ Thuốc dinh dưỡng và bảo vệ tế bào não: Cerebrolysin ...
* Cải thiện khả năng hoạt động thể lực:
- Tập vận động với các nguyên tắc sau:
+ Luyện tập thụ động nếu mất hoàn toàn vận động (lúc đầu).
+ Luyện tập chủ động khi đã hồi phục một phần (giai đoạn ổn định).
+ Luyện tập tất cả các cơ và các khớp bên liệt tuần tự từ gốc đến ngọn (kể cả ngón tay ngón chân) và làm tất cả các động tác mà khớp đó có (co, duỗi, dạng, khép và quay). Luyện tập ngày 3 lần, mỗi động tác của khớp làm 5 lần.
- Cung cấp cho người bệnh các phương tiện hỗ trợ như ghế ngồi, xe đẩy, gậy chống ...
- Chú ý cách vận chuyển người bệnh để hạn chế tiêu hao năng lượng cho điều dưỡng và tránh biến chứng (ngã, gẫy xương ...) cho người bệnh.
Các can thiệp chăm sóc trên nếu được thực hiện triệt để người bệnh sẽ phục hồi khả năng vận động, tránh được các biến chứng do bất động (thoái khớp, cứng khớp, loét ép, viêm phổi …)
* Cải thiện khả năng tự chăm sóc:
Các hoạt động tự chăm sóc bao gồm: Vệ sinh răng miệng, mặc quần áo, trang điểm...
- Muốn phục hồi khả năng tự chăm sóc nên khuyến khích người bệnh tự làm càng nhiều càng tốt. Chỉ trợ giúp khi người bệnh không tự làm được.
- Chỉ cho người bệnh cách hợp lý để tự chăm sóc mình (cách mặc quần áo, vệ sinh cá nhân ...)
- Cung cấp cho người bệnh các phương tiện trợ giúp: Ghế ngồi đại tiện, gậy chống, xe lăn…
- Cung cấp một chế độ ăn đủ năng lượng để người bệnh có thể tập luyện.
* Cải thiện khả năng giao tiếp:
- Trước hết cần thay đổi cách thông tin với người bệnh bằng các phương pháp thông tin không lời qua dùng hình ảnh, chữ viết, ra hiệu (nếu không liệt tay).
- Sau đó là luyện tập phát âm: Nguyên tắc là luyện từng từ, cụm từ, câu ngắn, câu dài hơn bằng cách:
Điều dưỡng ngồi đối diện với người bệnh, phát âm chậm rãi, rõ ràng từng từ rồi dần dần là cụm từ, câu và để người bệnh nhắc lại. Luyện tập nhiều lần trong ngày.
* Giúp cho người bệnh nuốt dễ dàng, đảm bảo đủ dinh dưỡng:
- Trước hết nên cho người bệnh ăn ở tư thế ngồi trên giường hoặc trên ghế tựa cho khỏi ngã. Trong tư thế ngồi thức ăn dễ xuống dạ dày hơn.
- Chọn thức ăn: Lựa chọn thức ăn mềm và đặc (cháo, súp đặc). Không ăn thức ăn dạng lỏng khi bệnh nhân có biểu hiện sặc (trừ khi phải ăn qua Sonde). Thức ăn phải đủ chất dinh dưỡng, cân đối về thành phần, đủ năng lượng, ăn làm nhiều bữa.
- Cách cho ăn: Đưa miếng thức ăn vào sâu trong khoang miệng lệch về bên không liệt.
- Hàng ngày luyện tập, xoa các cơ ở mặt (cơ cắn, cơ nhai, cơ cổ) giúp cho sự phục hồi các cơ tham gia động tác nhai nuốt.
* Giúp người bệnh đại tiện, tiểu tiện bình thường:
- Trước hết cần lập lại phản xạ đại, tiểu tiện cho người bệnh bằng cách: Cứ 4 giờ/lần cho ngồi bô tiểu tiện và ngày/1lần ngồi bô đại tiện (vào đúng giờ đại tiện đã hình thành từ trước khi bị tai biến).
- Khuyến khích người bệnh ăn các thức ăn có nhiều chất xơ và uống đủ nước để gây cảm giác đầy trực tràng và bàng quang.
- Luyện tập ngày nhiều lần bài tập cơ thắt bàng quang và trực tràng.
- Kích thích bàng quang và hậu môn bằng tay (có đeo găng) hoặc bằng nhiệt, bằng thuốc đặt hậu môn.
- Thông đái và thụt tháo nếu cần thiết.
* Hạn chế tổn thương da:
- Thay đổi tư thế cho người bệnh ít nhất 2 giờ/1 lần.
- Chăm sóc da thật cẩn thận, sạch sẽ nhất là vùng da bị tì đè để ngăn ngừa loét, nhiễm khuẩn: Hàng ngày rửa da thật sạch, nhẹ nhàng bằng xà phòng, lau da thật khô bằng khăn mềm, bôi chất thơm và chất ngăn ngừa nhiễm khuẩn.
- Dinh dưỡng thật đầy đủ giúp cho việc phục hồi, làm lành vết thương (nếu đã bị loét). Đặc biệt không để thiếu Protit.
- Cung cấp cho người bệnh các phương tiện bảo vệ cơ học như đệm hơi; đệm xốp; tốt nhất là đệm nước. Tuyệt đối không để da bị sây xước mất sự toàn vẹn của da.
- Chăm sóc tại chỗ loét (nếu đã bị) bằng thuốc kháng sinh, đắp đường; mật ong cho vùng da bị loét.
5.5. Đánh giá chăm sóc:
Xem có đạt được các mục tiêu đã đề ra:
- Cải thiện được dòng máu tới não: Biểu hiện bằng cải thiện được mức độ nhận thức, không xuất hiện thêm các tổn thương thần kinh.
- Phục hồi dần hoạt động thể lực. Dần dần tự chăm sóc được bản thân.
- Thông tin được bằng một hình thức giao tiếp khác hoặc phục hồi được tiếng nói.
- Không bị các biến chứng như gẫy xương, cứng khớp, viêm phổi, loét ép ...
Đăng nhận xét